"You are not a human being in search of a spiritual experience. You are a spiritual being immersed in a human experience"

31 January 2009

Những giác quan thứ 6 : Clairaudience - nghe thấy rõ

Clairaudience nghĩa là "nghe thấy rõ". Đó là khả năng nghe được âm thanh từ những thực thể ánh sáng, linh hồn, những ai ko có thể xác....

Clairaudience là giọng nói xuất phát từ bên trong bạn cảnh báo những vấn đề sắp xảy ra hoặc đưa ra những lời chỉ dẫn. Nó thùơng nói với bạn khi bạn trong tình trạng nguy hiểm hoặc khi chuẩn bị đưa ra một quýêt định quan trọng mà ảnh hưởng đến cuộc đời bạn. Thần hộ mệnh, người hướng dẫn tâm linh, bản chất tinh khiết nhất của bạn sẽ liên lạc thông qua từ ngữ, âm thanh và bài hát mà bạn quen thuộc. Có thể xuất phát từ trong hoặc bên ngoài bạn. Bạn cũng nghe âm thanh trong giấc mơ và từ đó tỉnh giấc

Ai là Clair-audient?

Những người này có khuynh hướng nghe tốt hơn mọi người, họ hay bị nhiễu bởi tiếng ồn, hoặc nghe như có tiếng chuông reo bên tai. Một vài clairaudients nói điều đó là dấu hiệu sắp cho họ nhận được thông điệp

Nhạc sĩ thường là clairaudient. Nhiều nhà soạn nhạc kể rằng họ nghe được âm thanh trong giấc mơ trước khi viết ra thành đoạn nhạc trên giấy
Bước đầu tiên để phát triển khả năng nghe rõ bằng cách thử các giác quan của bạn: nghe thật kỹ những âm thanh bạn nghe xung quanh trong lúc đang nằm trên giường ban đêm - âm thanh xe cộ, côn trùng, máy bay, người nói chuyện, âm nhạc. Chúng ta thường trộng những âm thanh này lại để có thể tập trung hoặc ngủ. Nhưng khi bạn trộn những tiếng ồn như vậy, bạn trở nên ít nhạy bén hơn với âm thanh.
Khi bắt đầu lắng nghe một cách chủ ý, bạn sẽ cảm nhận được sự hoà âm. Mục tiêu của bạn trong bài tập này là chú ý nghe từng âm thanh đơn lẻ tạo nên bản nhạc đó. Tách mọi âm thanh ra riêng. Đếm xem bạn nghe bao nhiêu âm thanh , có những âm rất thanh thoát, tinh tế và chú ý thiệt kỹ mới nghe được.
Tập bài này mỗi tối trước khi đi ngủ, rồi bạn sẽ thấy thật ngạc nhiên là trước đây sao bạn chưa từng nghe nhiều âm thanh đến như vậy. Nó sẽ giúp bạn khai mở giác quan clairaudience
Đừng tự khoá mình lại bởi những âm thanh tiêu cực. Khi bạn nhận được những âm thanh như vậy hãy mường tượng bạn đang được bảo vệ bởi vùng ánh sáng trắng đầy ấm áp dễ chịu hoặc được bảo vệ bởi các thiên thần, ngay tức thì bạn sẽ cảm thấy không còn sợ hãi nữa. hãy cầu nguyện để được bảo vệ. "Tôi an toàn khi lắng nghe giọng nói bên trong tôi"
http://healingandinsight.com/blogs/developing-clairaudience

Những giác quan thứ 6 : Clairvoyance - nhìn thấy rõ

Clairvoyance nghĩa là "nhìn thấy rõ". Hầu hết mọi người đều biết giác quan này mang đến điều gì - khả năng thấy linh hồn. Calirvoynants có thể nhìn thấy hào quang, bức xạ, những dấu hiệu và nhận được những linh cảm

Có những người với giác quan này thấy được sự việc bằng con mắt thứ 3 và có những người có thể nhìn thấy bằng mắt thuờng. Nhìn thấy bằng con mắt thứ 3 thì phổ biến hơn - giống như khi bạn nằm mơ, vẫn nhắm mắt nhưng hình ảnh trong mơ vẫn hiện ra rõ mồn một.

Trong khi giác quan Clairsentient có thể nhìn vào một bức ảnh và cảm nhận cảm xúc xuất hiện trong tấm ảnh đó thì Clairvoynant có thể nhìn thấy bức xạ của con người, nhìn thấy phần tinh tế của linh hồn bạn và thần hộ mệnh của bạn cũng như những thiên thần xung quanh bạn. Khi xem xét một tình huống cụ thể, khả năng clairvoyant có thể nhận được những dấu hiệu hoặc một đoạn phim có hàm ý chỉ về tình huống đang xảy ra

Nhận được hình ảnh là một chuyện nhưng không phải ai có giác quan này khai mở cũng hiểu được những điều họ nhìn thấy có ý nghĩa gì. Để phiên dịch diễn giải người đó phải sử dụng khả năng claircognizance hay clairaudience (sẽ có những bài víêt tiếp theo giải thích khả năng này)

Làm thế nào để khai mở giác quan này

Nếu bạn không có khả năng này bẩm sinh thì bạn vẫn có thể luyện tập để phát triển nó. Bạn có thể tìm đọc quyển sách tên ‘Psychic Development for Beginners’ tác giả William Hewitt và sử dụng những bài tập trong sách đó để khai mở clairvoyance

Bài tập: hình dung bạn đang nắm giữ 7 quả bóng bay với các màu: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh da trờ, tím và tím xanh. Lần lượt thả từng quả bóng này bay lên, bắt đầu từ màu đỏ. Quan sát cho đến khi từng quả bóng một được thả lên bầu trời cho đến khi mất dạng thì mới thả quả bóng thứ hai

Bạn cần khả năng tưởng tượng trong bài tập này. Những hoạt động làm tăng trí tưởng tượng rất tốt để luyện tập khai mở clairvoyance bởi vì sự tưởng tượng của bạn là công cụ để những thiên thần, thần hộ mệnh chuyển thông tin cho bạn bao gồm cả hình ảnh. Khả năng tưởng tượng càng phong phú thì càng dễ cho việc nhận thông tin & hình ảnh rõ ràng. Làm sao biết được đâu là thông tin do bạn tưởng tượng ra còn đâu là thông tin nhận được từ trên? Khi bạn nhận được thông tin từ Thiên thần, bạn không trong trạng thái kiểm soát. Bạn không tạo ra hình ảnh. Nó tự nhiện xuất hiện trong tâm trí mà không có sử chủ động tạo ra từ bạn

Lý do mà bạn không cảm nhận được khả năng này một phần do năng lượng tại vùng con mắt thứ 3 (giữa trán, giữa 2 lông mày) quá yếu và bị chặn bởi dòng năng lượng khác, năng lượng chảy trong cơ thể bạn không điều hoà (do ăn uống không điều độ, suy nghĩ lo lắng quá nhiều, tâm trí hướng ra bên ngoài...) việc tập thiền cũng giúp ích cho bạn luyện khả năng tưởng tượng. Ngoài ra đeo một viên đá như thạch anh tím hoặc lapis lazuli cũng giúp bạn tập trung năng lượng cho vùng này.

(trích lược từ http://healingandinsight.com/blogs/developing-clairvoyance)

30 January 2009

Những kiểm chứng về thế giới bên kia



Có 5 loại sách sẽ cung cấp cho bạn những thông tin kiểm chứng về thế giới bên kia
- Loại thứ 1: sách dựa vào thông tin của những nhà tiên tri và những người có khả năng "khai mở con mắt thứ 3" như Edgar Cayce, Ross Peterson, Sylvia Brown...
-Loại thứ 2: sách viết bởi những người có khả năng liên lạc với thế giới bên kia : vd sách về Phỏng vấn các thiên thần, thông điệp từ thiên thần Michael, Nói chuyện với thiên đàng, Chạm tới thiên đang - Jame Van Praagh, James Edward...
-Loại thú 3: viết tự động, khi tác giả hoàn toàn không hiểu hết những điều mình viết ra mà do một năng lượng khác sử dụng đôi tay họ để truyền thông điệp : Conversation with God, The world Before and a world beyound bởi Ruth Montgomery.
- Loại thứ 4: sách được viết dựa trên những kết quả thôi miên hàng ngàn người. Vd: Soul and Destiny của Michael Newton, Between Death and Life của Dolores Cannon, Past Lives Future Lives của Dr. Bruce Goldberg...
- Loại thú 5: do nghiên cứu các hiện tượng kinh nghiệm cận tử của hơn 8 triệu người Mỹ, những tác giả trong lĩnh vực này rất nổi tiếng từng là bác sĩ y khoa, tiến sỹ triết học, vd : Dr. Raymond Moody, Dr. Melvin Moarse, Dr. Elisabeth Kubler-Ross, Dr. George Ritchie, Kenneth Ring Ph.D., PMH Altwater, Craig R. Lundahl Ph.D (The Eternal Journey), Betty J. Eadie (Embraced by the Light) and Damion Brinkley's

Cả 5 phương pháp tiếp cận trên sẽ cho bạn một cái nhìn rộng hơn & hệ thống hơn dựa trên những nền tảng Phật giáo hoặc Thiên chúa giáo

24 January 2009

You are the World


You are the World


Completion, Good Reward.


The World is the final card of the Major Arcana, and as such represents saturnian energies, time, and completion.


The World card pictures a dancer in a Yoni (sometimes made of laurel leaves). The Yoni symbolizes the great Mother, the cervix through which everything is born, and also the doorway to the next life after death. It is indicative of a complete circle. Everything is finally coming together, successfully and at last. You will get that Ph.D. you've been working for years to complete, graduate at long last, marry after a long engagement, or finish that huge project. This card is not for little ends, but for big ones, important ones, ones that come with well earned cheers and acknowledgements. Your hard work, knowledge, wisdom, patience, etc, will absolutely pay-off; you've done everything right.


What Tarot Card are You?
Take the Test to Find Out.

18 January 2009

Đối thoại với thượng đế - trích dịch từ Conversation with God

Có những câu hỏi quan trọng nhất trong đời mà loài người ít khi nào tự hỏi chính mình, huống hồ gì là đi tìm câu trả lời

1.Tôi là ai?
2. Tôi đang ở đâu?
3. Tại sao tôi đang ở nơi đây?
4.Tôi đang làm gì ở nơi đây?

Câu trả lời của tôi có thể khác với bạn, tôi chỉ viết ra đây để cùng suy ngẫm và thảo luận

1.Tôi là ai? - Who am I?

Bạn là phần nhỏ trích ra từ thượng đế, là một sự phi thường, là đại diện của thần thánh. Bạn là đại diện thể hiện sự tồn tại của Vũ trụ. Bạn là điều kì diệu vi mô của những phép màu vĩ đại. Bạn là năng lượng độc đáo của những gì tinh tế nhất mà bạn có thể gọi nó với cái tên "cuộc sống"

....tóm lại: bạn là thượng đế

Bạn là cái Mà Bạn Là. Cuộc sống là thượng đế, tạo ra bởi vật chất. Bạn là Thượng đế, tạo ra vật chất. Bạn không phải là tổng thể của Thượng đế, như một giọt nước hòa vào đại dương, nhưng bạn là thánh thần - thể hiện phẩm chất thánh thần (You are That Which Is, in the act of Being. Life is God, made physical. You are God, made physical. You are not the totality of God, any more than a drop is the totality of the ocean, but you are Divinity nonetheless--Divinity Expressed.)


2. Tôi đang ở đâu ? - Where am I?

Bạn ở trong thế giới vật chất - thế giới của mối quan hệ ...nơi bạn có những trải nghiệm

Bạn đến từ thế giới linh hồn --còn gọi là thế giới tuyệt đối thế giới của sự hiểu biết, chân lý,

Bạn đang trên đường đi đến thế giới của ảo - nơi gọi là thế giới sự thật --nơi bạn trải nghiệm được sự tồn tại

Ba thế giới này tạo thành vương quốc của thượng đế. Bạn đang ở thiên đàng.
Thượng đế là một tiến trình. Bạn đang ở trong tiến trình ấy ngay bây giờ. Nếu bạn không trãi nghiệm cuộc sống theo cách này, đó là vì bạn không biết mình là ai, đang ở đâu, tại sao lại ở nơi đây và bạn đang làm gì.
3. Tại sao tôi lại ở đây ? ---Why am I where I am?

Bởi bạn cần một môi trường mà trong đó bạn trải nghiệm và nhận biết mình là ai, để bạn được làm đầy --đó là ý định bạn tới trái đất và sống ở đây

Linh hồn bạn đang trong một cuộc hành trình. Đó là hành trình bất tử, hành trình từ thế giới ảo đến thế giới linh hồn đến thế giới vật chất rồi lại trở về thế giới ảo, nơi chu kì một lần nữa bắt đầu

Chu kỳ có mục đích của nó. Bạn cần biết rằng đây là cuộc hành trình vô tận. Mục đích chu kì của cuộc sống là mởi rộng sự thật về Thượng đế

Một cách đơn giản, Thượng đế đang phát triển --nhận thức về bản thân nhiều hơn -- thông qua tiến trình. Thượng đế là tiến trình... và là kết quả. Thượng đế là đấng sáng tạo và tạo dựng. Là Alpha và Omega. Là bắt đầu và kết thức. Một người quan sát mà không xem

In simple terms, God is growing -- becoming more of Itself -- through this process. God IS this process. That is, God is the Process Itself...and the result of it. Thus, God is The Creator and The Created. The Alpha and the Omega. The Beginning and The End. The Unmoved Mover. The Unwatched Watcher.


4. Tôi đang làm gì ở đây ? ---What am I doing here?

Bạn tham gia vào tiến trình của thượng đế. Trong cõi trần bạn tạo ra và sống trong môi trường để được trải nghiệm. Trải nghiệm cái gì? trải nghiệm cái ma bạn chọn

Bạn tạo ra lựa chọn này bằng cách đáp ứng với môi trường xung quanh, mà quyết định của bạn ảnh hưởng tới nó. Trong môi trường ấy bạn có thể Phản ứng, Tạo lập hoặc hướng về bên trong. Tùy thuộc vào bạn

Tiến trình mà bạn trải nghiệm những gì bạn đến cõi trần để trải nghiệm là một tiến trình giúp tăng nhận thức của bạn về tiến trình chính bản thân nó. Khi bạn càng nhận thức rõ, bạn chuyển từ phản ứng sang sáng tạo thành rồi hướng về bên trong và thể hiện (The process by which you Experience what you came to physicality to experience is a process of increasing your Awareness of the Process Itself. As you become more and more Aware, you move from Reaction to Creation to Intention to Expression.)

Người không biết thì phản ứng. Người học thì sáng tạo. bậc thầy thì quay về bên trong. Thần thánh thì thể hiện từ trong ra ngoài(The Unknowing reacts. The Student creates. The Master intends. The Divine expresses.)

Trong cuộc sống có những người không biết, và không biết rằng họ không biết

Và trong cuộc sống có những người không biết, nhưng biết là họ không biết

Và có những người không biết, nhưng nghĩ rằng họ biết

Và có những người biết, những không nghĩ rằng họ biết

Và có những người biết, nhưng giả vờ họ không biết

Có những người biết, và biết là họ biết

Cuộc sống trong cõi trần tục tạo cơ hội cho bạn đến với sự Biết, và biết rằng bạn biết. Nó cho bạn cơ hội làm chủ từng khoảnh khắc. Bạn có thể thực hiện điều này khi trong từng khoảnh khắc quyết định bạn dự định thể hiện như thế nào (Life in the Realm of the Physcial invites you to Know, and to Know That You Know. It invites you to Master the Moment. You can do this by moving into each moment deciding ahead of time what you Intend to Express)

Đừng lãng phí cuộc sống bạn để trải nghiệm sự phản ứng, hoặc thậm chí là trải nghiệm sáng tạo mà là trải nghiệm bên trong, trải nghiệm thể hiện phẩm chất của thánh thần

Sự thật là bạn chẳng thể tạo nên điều gì, vì mọi thứ đã được tạo ra. Bạn lãng phí thời gian để cố tạo ra cái gì đó. Đó là hình ảnh một đứa trẻ đang chơi, bạn đang ở trong một hộp cát và chơi với đồ chơi. Bạn không đến đây để làm điều này. Bạn đến đây để trải nghiệm bản thân bạn thật sự là ai, để thể hiện điều ấy ra ngoài, một phẩm chất của thánh thần - và tái tạo lại bản thân mới hơn trong một tâm nhình lớn lao của tầm nhìn lớn lao trong việc Bạn Là Ai

In truth you cannot create anything, because everything has already been created. You are wasting your time trying to create something. That is child's play. You are in the sandbox, playing with toys. You did not come here for that. You came here to Experience your Self as Who You Really Are; to express through you, as you, an aspect of Divinity -- and to recreate yourself anew in the next grandest version of the greatest vision ever you held about Who You Are.

( Neale Walsch - Conversations with God material )

13 January 2009

Giới thiệu Celestine Phophecy


Phim được chuyển thể từ quyển sách mang cùng tên (lời tiên tri thánh thần) mang nhiều ý nghĩa và thông điệp tâm linh. Thể hiện bằng hình ảnh một cách sinh động nhất làm sao năng lượng của con người được duy trì và nuôi dưỡng.
Bắt đầu tư một thầy giáo nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người, John nhận được thông tin từ một người bạn Charlene đến với Peru và bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm những cuộn da nói về bí mật những lời tiên tri.

Trong khi bộ phim Celestine phophecy chỉ nói sơ lược về hành trình tìm kiếm và phóng tỏa năng lượng, thật sự lắng nghe trực giác trả lời như thế nào thì The Tenth Insight nói rõ hơn về từng lời tiên tri một và The Eleventh Insight, the secret of shambala mô tả chuyến đi về Tây tạng để bước vào thế giới Shambala huyền thoại.

Loạt sách của tác giá James Redfield thể hiện được cốt lõi sâu sa nhất của vấn đề tâm linh và tôn giáo. giải thích cặn kẽ và dễ hiểu hành trình trở về bên trong của con người.

Khả năng con người là vô hạn, trong khi hầu như chúng ta chỉ sử dụng 3% công năng bộ não, vậy những phần trăm còn lại dùng làm gì? Celestine phophecy giúp giải thích khái quát nhất về vấn đề năng lượng, ý thức con người có thể dùng để vận dụng và tạo ra trường năng lượng, sự kì vọng tích cực sẽ dẫn dắt con người đến với điều họ muốn.
Tất cả những kiến thức siêu phàm đều bắt đầu từ thế giới bên kia, những người giác ngộ hoặc có trải nghiệm cận tử đã mang kiến thức này đến với cuộc sống trần gian. Chính cuộc sống của loài người trên trái đất đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự xung động của thế giới bên kia và cũng chính con người mới có thể thay đổi được ảnh hưởng đó

05 January 2009

Lời cảnh tỉnh của các bậc “Tiền bối”


Alan Ereira
Nguyên Phong dịch

Bài viết này rất là ý nghĩa, nói về bộ lạc có nguồn gốc khác với loài người, sinh trước loài người. Các bạn hãy đọc và cùng suy nghĩ nhé. Mình xin bắt đầu trích bài viết này.

LDG: Tháng 10 vừa qua, đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ đã cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi nhận nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài đưọc bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ, môi sinh và nhân chủng học. Lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ Đại Hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ chức tại Chicago, nó đã gây một xúc động lớn cho toàn thể cử tọa. Chúng tôi ghi nhận lại đây bài thuyết trình ‘Elder Brother’s Warning ’ của ký giả Alan Ereira để bạn đọc cùng suy gẫm.


Từ ngàn xưa, nhân loại đã có những nền văn minh lớn. Những nền văn mình đã tạo ra những kiến trúc vĩ đại như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành v..v..Tuy nhiên dù phát triển đến đâu chăng nữa, nền văn minh nào cũng chiụ sự chi phối của luật vô thường, nay còn mai mất, cái gì cực thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Lịch sử đã chứng minh điều đó một cách hiển nhiên vì ngày nay không mấy ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa ngọai trừ những giai đoạn rời rạc, pha trộn nhiều hư cấu khó tin.

Nói đến Kim Tự Tháp, người ta thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những Kim Tự Tháp Nam Mỹ, mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp còn nhiều hơn, đặc biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn. Có lẽ vì phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát.

Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ Châu. Phần lớn lãnh thổ xứ này được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng Sierra thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay, không mấy ai đặt chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật. Huyền thọai xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh, có nhiệm vụ che chở cho nhân loại. Vì đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bỏi những đám mây mù, thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt, khó có ai có thể vượt rừng đến đó được. Năm 1974, một phi công bay lạc vào phía đông bắc của rặng Sierra và phát hiện một Kim Tự Tháp rất lớn, tọa lạc giữa rừng. Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đã thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của các quốc gia khác kéo nhau đến đây nghiên cứu. Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp khác tại Nam Mỹ; do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya. Quanh Kim Tự Tháp là một thành phố bỏ hoang với nhũng hệ thống đường sá được lót bằng đá hết sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống ống cống thoát nước rất hữu hiệu, chứng tỏ người xưa đã hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh. Theo các nhà khảo cổ thì thành phố này đã được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và Maya phát triễn, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ. Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc nào đã sống tại đây? Tại sao họ lại biến mất, không để lại một dấu tích gì trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường sá tinh vi kia?

Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng dù đã trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường sá vẫn còn rất tốt, không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa, bảo trì thì chỉ vài chục năm đã hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm. Dọc theo những con đường lót bằng đá, là những thửa ruộng trồng lúa và khoai, chứng tỏ nền văn minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp. Một điểm đặc biệt là mỗi ngã tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ lùng trông như một tấm bản đồ. Bản đồ đường sá hay bản đồ chỉ dẫn điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn. Thông thường các nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục,tập quán, nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề tìm thấy một dấu tích đặc biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ kỳ lạ kia.

Cách đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập, không giao thiệp với ai. Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con cháu của những người đã xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với đường sá xây bằng đá này, nhưng họ vẫn không biết vì sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất, không để lại dấu tích nào? Vì người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra, không tiếp xúc và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ. Trong khi những bộ lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hoá với những người tỉnh thành, thì người Kogi rất thận trọng và kín đáo, rút lên những vùng núi cao, không tiếp xúc với ai, chỉ giới hạn việc giao thiệp với một vài bộ lạc lân cận mà thôi.

Đầu năm nay, ký giả Alan Ereira, phóng viên đài BBC tại Columbia, nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai, đã chấp nhận cho anh được phỏng vấn với điều kiện là anh phải đến tham dự buổi Đại Hội Tôn Giáo thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một bản Thông Điệp của họ. Ký gỉa Areira đã viết: ‘Đây là một biến cố đặc biệt. Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép tôi được phỏng vấn, quay phim? Họ muốn gì đây? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, lại biết có một Đại Hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa Kỳ để gởi một Thông Điệp? Một điều may mắn là tuy người Kogi không liên lạc với ai, rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ, nhưng vì họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó, nên chúng tôi đã tìm được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để làm công việc thông dịch’.

Phái đoàn của ký giả Ereira gồm 6 người, 2 ký giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu hình đã lên đường vào đầu năm 1993. Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo lội suối, họ đã đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra. Đường vào đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu treo bện bằng dây thừng bắc ngang qua bờ vực. Được thông báo trước, một phái đoàn Kogi đã ra đón tiếp trước bờ vực.

Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm. Một người lớn tuổi đã bắt đâu bằng một bài diễn văn ngắn:

‘Chúng tôi là những trưởng lão của dân Kogi, chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đàu tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển nhiên việc này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ, một giống dân đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi, trước khi tổ tiên các ông ra đời. Vì chúng tôi có mặt từ trước, chúng tôi tự coi mình là những người anh lớn trong đại gia đình nhân loại, do đó chúng tôi là anh và các ông là em. Theo lệ thường trong gia đình, người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em, nhưng chúng tôi biết rằng các em còn trẻ quá, còn hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng cổ ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được gì, nên trải qua mấy ngàn năm nay, chúng tôi, những người anh, đã quyết định giữ thái độ im lặng. Chúng tôi hy vọng theo thời gian, các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đã tạo. Tiếc thay thời gian quá nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì lại còn tiếp tục phá họai gia tài Mẹ Cha để lại, do đó, những người anh lớn bắt buộc phải lên tiếng. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi. Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim, chụp hình và làm tất cả những gì cần thiết, và sau đó chúng tôi có một Thông Điệp muốn gởi cho thế giới bên ngoài.

Ký giả Ereira ghi nhận: ‘Thật không thể tưởng tượng được cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt qua chiếc cầu treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào vùng đất của người Kogi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng thời gian đã dừng lại hoặc chúng tôi đã đi ngược thời gian để trở về một thời điểm nào đó của lịch sử. Mặc dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái đoàn của chúng tôi đã làm việc không ngừng. Mọi người tùy theo khả năng chuyên môn đã tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi nhận. Chuyên viên thu hình đã làm việc không nghỉ, ghi nhận được hơn hai mươi giờ phim ảnh, tài liệu. Chuyên viên y tế đã khám hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe của những người dân tại đây. Điều đặc biệt là tuy sống trong một tình trạng có thể tạm gọi là ‘thiếu tiêu chuẩn vệ sinh’ theo quan niệm của những ngưòi ‘văn minh’ như chúng ta nhưng chuyên viên y tế không hề tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả. Hàm răng của họ rất tốt, ngay cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các bộlạc khác cũng không hề có tại đây. Tôi xin xác nhận rằng tất cả những gì chúng tôi ghi nhận đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính cách trung thực của nó. Vì thời gian quá ít, chúng tôi chỉ làm được những gì có thể làm và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi được biết có đến hơn hai mươi làng mạc rải rác trên đỉnh Sierra, nhưng chúng tôi chỉ được đến thăm một làng duy nhất mà thôi. Chắc hẳn người Kogi đã có một lý do riêng nào đó nên không muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác, nhưng chúng tôi cũng không muốn tò mò tìm hiểu thêm làm gì. Các Trưởng Lão xác nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng cũng không muốn sự có mặt của chúng tôi gây xáo trộn đời sống yên lành của những người dân trong vùng.

Điều đặc biệt đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người dân Kogi thường sinh hoạt chung. Mỗi khi cần làm việc gì thì mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất tự nhiên. Chúng tôi đã chứng kiến việc toàn thể dân chúng trong làng kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào làng. Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm một phần mà không cần phải có người hướng dẫn hay chỉ huy. Vì con đường này nối liền hai làng nên dân cả hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự.

Chúng tôi được biết ngôi làng có một Hội Đồng Trưởng Lão. Những người này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng gỗ, bên trong đựng vôi. Họ cầm một chiếc que xoay qua xoay lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột, thỉnh thoảng lại đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi. Một Trưởng Lão cho biết: chiếc ống vôi tượng trung cho đời sống. Họ luôn tay xoay chiếc ống vôi đó vì đời sống luôn luôn thay đổi, tiếp diễn không ngừng. Đá vôi tượng trưng cho chất liệu của đời sống. Sở dĩ họ nghiền nát những miếng vôi rồi đưa lên miệng vì hành động đó làm cho đời sống trở nên ý nghĩa hơn. Tôi không hiểu rõ nghĩa của câu đó nên yêu cầu ông giải thích thêm. Vị Trưởng Lão đã nói: ‘Đời sống là một sự mầu nhiệm. Nếu con người biết mài dũa thân và tâm để ý thức đời sống một cách trọn vẹn thì người ta sẽ ý thức được những việc khác phi thường hơn.’

Ký giả Ereira kết luận: ‘Tôi đã quan sát việc này rất lâu mà không hề giải thích gì hơn. Theo tôi thì có lẽ đây là một phương pháp tỉnh tâm, ý thức hành động của mình, một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của ngưòi Á Châu. Việc mài giũa tâm và thân qua hành động xoay xoay chiếc ống vôi nhỏ trên tay là một điều lạ lùng rất khó giải thích.’

Chính giữa làng có một căn nhà rất lớn cất bằng lá cây. Đây là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc quan trọng. Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nhìn thấy các biểu tượng Tôn Giáo,tín ngưỡng gì cả. Căn nhà hoàn toàn trống trơn và rất sạch sẽ. Một vị Trưởng Lão cho biết đây là trung tâm sinh hoạt của làng, mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng trọt, cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận tại đây để lấy quyết định chung. Tất cả mọi người đều có quyền phát biểu ý kiến, không có Tù trưởng hay một ai nắm quyền hành cả. Ký giả Ereira ghi nhận: ‘Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy. Một bộ lạc không có Tù Trưởng, không có người lãnh đạo, mọi quyết định đều là quyết định chung. Phải chăng đây là một hình thức dân chủ thô sơ nhất và chân chính nhất đã có từ ngàn xưa? Theo chỗ chúng tôi dò hỏi thì không có một điều gì được làm nếu không có sự đồng ý chung, nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là đa số trên thiểu số mà là quyết định của toàn thể mọi người (Concensus). Thật khó có thể tưởng tượng được một bộ lạc sống biệt lập lại có một truyền thống dân chủ đặc biệt như vậy! Phải chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ? ’

Đơn vị nhỏ nhất của xã hội Kogi là đơn vị gia đình. Trung bình một gia đình gồm Cha Mẹ và các con nhỏ. Khi trẻ em còn nhỏ chúng được nuôi duỡng bởi Cha Mẹ, phần lớn là người Mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái. Nếu có bệnh tật thì các em được đưa đến cho các Trưởng Lão chữa bệnh. Đôi khi các Trưởng Lão cũng bó tay và em nhỏ không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp nhận, cho rằng đó là luật thiên nhiên. Nếu sống được đến lúc trưởng thành thì người Kogi có tuổi thọ rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng một trăm hay hơn thế nữa. Một Trưởng Lão cho biết: ‘Theo quan niệm của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Bệnh tật chỉ là hậu quả của những gì trái với thiên nhiên. Ngoài ra sự tương giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị phá hoại, chắc chắn con ngưòi sẽ bị ảnh hưởng theo, do đó, con người phải biết tìm môi trường thích hợp để sống. Chính vì sống theo với các định luật thiên nhiên mà có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra, đây là bằng chứng hiển nhiên rằng con ngưòi chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và cách thức mà họ sinh sống.’ Khi đứa nhỏ đuợc khoảng bảy tuổi thì chúng bắt đầu rời Cha Mẹ để sống với Ông Bà Nội, Ông Bà Ngọai ở cách đó không xa để được giáo dục thêm về cách sống tự lập. Khi đuợc hai mươi mốt tuổi thì đứa nhỏ đi theo các bậc Trưởng lão học hỏi và khi gần ba mươi tuổi mới bắt đầu khởi sự lập gia đình riêng. Người Kogi sống bằng cách canh tác và hái trái cây trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thưòng được gán cho các dân tộc còn man dã. Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản dị. Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó vài hạt đậu rồi lấp lại. Việc trồng trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ vì người nữ ‘mát tay’ hơn người nam. Một Trưởng Lão cho biết: ‘Chúng tôi vẫn biết có những phương pháp trồng trọt, canh tác khác có thể làm hoa màu nảy sinh rất nhiều, nhưng có nhiều để làm gì? Gia đình nào thì cũng chỉ ăn ngày ba bửa. Có nhiều sẽ tạo nên tình trạng tham lam, tạo ra nhiều phiền toái vô ích.’ Thiên nhiên đã lo liệu chu toàn thì cứ theo đó mà sống. Các ông hãy nhìn kia, chim chóc không gieo hạt mà thiên nhiên có để cho chúng chết đói đâu? Các thú rừng khác cũng thế, chả loài nào thiếu ăn cả, vậy tại sao con người phải lo tàng trữ, gia tăng thu hoạch thực phẩm? Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên, có nhiều hơn cái mình cần là lấy đi mất phần của người khác hay sinh vật khác, và như thế là vi phạm một định luật căn bản của thiên nhiên và truyền thống sẵn có của dân Kogi. Các ông nên biết người Kogi chỉ sống vừa đủ, hoàn toàn không có gì dư thừa và do đó, tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác.’

Một điểm rất đặc biệt là người Kogi không hề ăn thịt cá. Khác hẳn với các bộ lạc khác, họ không hề săn bắn hay có vũ khí. Truyền thống của họ không hề có vấn đề giết hại bất cứ một sinh vật nào, dù lớn hay nhỏ. Đây là một chi tiết đang làm nhức đầu nhiều nhà nhân chủng học và xã hội học. Từ trước đến nay, các lý thuyết đều cho rằng những bộ lạc dã man đều sinh sống bằng săn bắn và ăn trái cây trong rừng. Việc một bộ lạc không hề có tập tục ăn thịt cá là một là một sự kiện độc đáo, lạ lùng hiếm có và khó giải thích. Người Kogi cho rằng giết hại sinh vật là trái với luật thiên nhiên. Có lẽ vì lý do đó, trong thời gian quay phim, phái đoàn đài BBC đã thấy rất nhiều hươu, nai, thỏ rừng, chồn,cáo đi qua đi lại trong làng như những gia súc mà không hề sợ hãi. Vì chỉ sống bằng rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi, nghiên cứu các lá cây có dược tính là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng tại đây. Người Kogi cho biết họ có thể sống từ ngày này qua ngày khác bằng cách ngậm một vài lá cây mà thôi, có lẽ vì chỉ ăn rau trái mà họ sống lâu như vậy!

Phái đoàn đã ghi nhận việc một Trưởng Lão dạy dỗ một thanh niên cách ăn uống như sau: ‘Khi ăn phải nhai thật từ từ, thong thả, phải ý thức từng chút một và tuyệt đối chú tâm vào việc ăn chứ ‘không đưọc nghĩ đến gì khác.’ Cách ăn uống làm chủ vị giác là bài học vỡ lòng đầu tiên trong phương pháp giáo dục của họ. Truyền thống tại đây không có trường học mà chỉ có cách dạy dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ,Ông Bà cho con cháu, và từ các bậc Trưởng Lão cho những thanh niên. Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng, có một không hai. Khi được khoảng hai mươi tuổi, thanh niên được gởi đến học hỏi với các bậc Trưởng Lão trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây họ sẽ tập ngồi yên quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ chỉ nhai một ít lá cây, uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định, các bậc Trưởng Lão có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm.

Ký giả Ereira đã ghi nhận buổi giảng dạy trong một hang đá như sau: Thanh niên ngồi quay mặt vào vách, vị Trưởng Lão bước vào ngồi ở phía sau quan sát thanh niên kia một lúc rồi mới đưa chiếc ống đựng vôi cho thanh niên sử dụng. Ông nói: ‘Ngươi hãy xoay chiếc ống thật từ từ, thong thả, ý thức từng hành động và biết rằng mọi vật trong thiên nhiên lúc nào cũng thay đổi như chiếc ống đang xoay trong tay ngươi vậy. Ngươi phải biết rằng đời sống vốn quí báu như vôi đựng trong ống, phải biết quý trọng đời sống của mình cũng như của mọi sinh vật. Tất cả hiện diện nơi đây vì một ý nghĩa nhất định chứ không phải tình cờ.’

Trong một hang đá khác, một Trưởng Lão giảng dạy về cách canh tác: ‘Ngươi phải biết tôn trọng từng gốc cây, từng ngọn cỏ vì cây cỏ cũng có đời sống riêng của nó. Đừng bao giờ nghĩ đến việc chặt một cây mà không nghĩ đến hậu quả mà ngươi sẽ gây ra. Cây cối cho ngươi trái ăn, cho ngươi bóng mát và che chở ngươi khi cần thiết, vậy ngươi phải biết tôn trọng cây cối. Ngươi phải biết vạn vật liên quan với nhau chặt chẽ và ngươi phải ý thức rõ rệt về sự tương quan mật thiết này. Phá hoại trật tự này là phá họai đời sống và phá họai đời sống là tự hủy đó.’

Ký giả Alan Ereira kết luận: ‘Trong suốt chín năm ngồi quán xét sự liên hệ giữa các sinh vật với nhau, về mối liên quan giữa con ngưòi và con người, người và thú vật, người và rừng cây, người và con suối, mà họ biết tôn trọng thiên nhiên, không giết hại, không ăn thịt cá. Họ biết ý thức sự sống tràn đầy trong thiên nhiên, từ đỉnh núi cao xa to lớn cho đến những côn trùng nhỏ bé, từ những trận mưa đầu mùa đổ nước xuống các dòng suối tươi mát cho đến những hoa thơm cỏ lạ mọc trong các thung lũng. Tâm thức họ tràn đầy các hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên qua các điệu nhạc mà chim chóc hòa tấu, thưởng thức hương thơm của cỏ hoa, rung động với các thay đổi của thời tiết… điều này phải có một kết quả lạ lùng nào đó vì khi trưởng thành, bước ra khỏi hang đá, con người đó phải là một con ngưòi ý thức rất sâu xa về mình và sự tương quan giữa mình và mọi vật. Khi đó họ trở nên một con người mà theo tập tục của xã hội Kogi là người đã trưởng thành, có thể lập gia đình, có bổn phận với xã hội, hoặc tiếp tục đi theo các bậc Trưởng Lão để học hỏi thêm và trở nên một trong những người này. Danh từ ‘Trưởng Lão’ của người Kogi không hề có nghĩa là người chỉ huy mà chỉ có nghĩa là một người khôn ngoan (wise man) mà thôi’.

Muốn đi theo con đường của các bậc Trưởng Lão, một thanh niên còn phải học hỏi trong nhiều năm. Một trong những phương pháp quan trọng là việc tỉnh tâm để ‘giao cảm với tâm thức vũ trụ,’ nhờ đó họ có thể biết được nhiều việc xảy ra trên thế giới mặc dù không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Đa số các Trưởng Lão thường bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để ngồi yên lặng, giao cảm với thiên nhiên, vì đối với họ việc tỉnh tâm là mục đích chính của đời sống. Các nhu cầu như ăn uống, chỉ là phụ thuộc. Người ta chỉ bỏ ra vài giờ vào rừng hái trái cây, uống nước suối là đủ rồi, nhưng người ta không thể sống mà thiếu ý thức về mình được.

Một vị Trưởng Lão cho biết: ‘Vũ trụ là một tấm gương lớn, phản ảnh tất cả mọi việc xảy ra trong đó. Biết rung động vởi vũ trụ là biết quán xét tấm gương kia, do đó người ta đâu cần phải đi đâu xa mà cũng biết được những điều cần thiết. Việc ngồi chín năm trong động đá đâu phải chỉ ngồi đó nhai vài lá cây, suy nghĩ vài câu nói, mà đòi hỏi người ta phải nổ lực tìm hiểu về mình, vì biết chính mình là biết được vũ trụ và biết được vũ trụ thì tất hiểu được các định luật thiên nhiên. Đã hiểu được các định luật này một cách sâu xa thì làm sao có thể làm trái vói nó được? Sở dĩ con người làm việc sai quấy vì họ khôngbiết mình, chỉ sống hời hợt, quay cuồng và dựa trên những giá trị có tính cách giả tạo, những gía trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải phát xuất từ những công phu suy gẫm sâu xa. Sống như thế không thể gọi là sống. Đó là sống mà như chết, thân thể tuy sống mà đầu óc đã chết từ lâu rồi! ’

Đối với người Kogi, việc chết cũng rất giản dị. Khi cảm thấy đã đến lúc phải ra đi, một người già thường tìm vào một hang đá sâu và ngồi yên trong đó chờ chết. Họ không làm đám tang, gia đình than khóc như những bộ lạc khác, mà họ cho rằng đó là một việc bình thường, không có gì đáng quan tâm. Một điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là họ không hề có một tín ngưỡng thờ thần linh hay vật tổ như các bộ lạc khác. Truyền thống nơi đây chú trọng trên căn bản tỉnh tâm suy gẫm nên họ đã có những quan niệm hết sức đặc biệt, khác hẳn với những nền văn minh khác tại Nam Mỹ. Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này qua đời khác thì thuở ban sơ, vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú hay bất cứ một cái gì và chính cái trống rỗng uyên nguyên đó được gọi là ‘Mẹ Vũ Trụ’ hay Kaluna. Danh từ ‘Mẹ Vũ Trụ’ không phải một đấng Hóa Công (Creator) mà chỉ là một tâm thức (Mind), một trạng thái tuyệt đối hoàn hảo của tâm thức.

Một Trưởng Lão đã nói: ‘Các quan niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng, đất, nước, gió, lửa từ đâu đến? Phải chăng từ tâm thức này sinh ra? Chính tâm thức đó phát sinh ra tư tưởng và khi tư tưởng vận hành, giống như cuộn chỉ xoay từ sợi, mà tất cả mọi vật đều phát sinh. Tóm lại, tất cả đều do tâm tạo. Có tất cả chín thế giới phát sinh từ tâm thức vũ trụ cũng như một người Mẹ sinh ra chín đứa con. Một đứa con có một đặc tính hay sắc thái tiêu biểu bằng các màu sắc khác nhau. Thế giới thứ chín chính là cái thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống. Tất cả mọi thế giới đều tuân theo những qui luật nhất định liên quan đến việc sinh ra, lớn lên,phát triễn rồi chết đi. Đó chính là định luật thiên nhiên không thể thay đổi. Ý thức rõ rệt các định luật này rất quan trọng vì nó là cây cầu tâm thức nối liền chúng ta và các cảnh giới khác và sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna). Chính vì ý thức mà người ta biết rằng trái đất này không phải tạo ra riêng cho loài người mà cho tất cả mọi sinh vật khác nữa.’

Ký giả Ereira đã đặt câu hỏi về Kim Tự Tháp và thành phố bỏ hoang với Trưởng Lão người Kogi nhưng họ lắc đầu từ chối không tiết lộ gì về lịch sử của thành phố đó. Mặc dù họ tự nhận là con cháu của những người đã xây cất ra thành phố đó nhưng họ cho biết: ‘Tại sao các ông cứ quan tâm đến những ký hiệu lạ lùng, những tấm bản đồ bằng đá kia làm chi? Các ông sẽ không thể hiểu nỗi những ẩn nghĩa đó khi tâm các ông còn xáo trộn. Các tâm hồn non dại, chưa trưởng thành, chưa biết làm chủ mình thường chỉ thích tò mò chạy theo những kỳ lạ, những hão huyền bên ngoài chứ không biết quay vào bên trong để hiểu chính mình. Chỉ khi biết mình thì mới biết đưọc những điều mà Kim Tự Tháp kia được xây cất vào việc gì và những tảng đá kia để chỉ dẫn những gì. Khi xưa tổ tiên của chúng tôi đã biết rõ những điều này nhưng khi con người trở nên tham lam, ích kỷ, giết hại, ăn thịt cá, phá họai trật tự của thiên nhiên thì tổ tiên chúng tôi biết không thể thay đổi gì được. Họ rút vào rừng sâu núi thẳm, chờ đợi những người em sẽ rút tỉa những bài học mà họ phải học, những lỗi lầm mà họ đã gây ra, nhưng tiếc thay đã bao lâu nay hình như chẳng mấy ai học hỏi được điều gì hết! ’

Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và quay phim; buổi tối hôm ấy, mọi nguời quây quần trong căn nhà chính để nghe một Trưởng Lão tuyên bố về Thông Điệp mà họ muốn gửi cho thế giới. Đó là một ông lão lớn tuổi nhưng còn khỏe. Nhìn hàm răng còn nguyên vẹn, mọi người nghĩ ông lão chỉ vào khoảng sáu mươi là nhiều, nhưng về sau ký giả Ereira được biết vị Trưởng Lão này đã sống trên một trăm năm rồi. Hầu như vị Trưởng Lão nào cũng đều trên một trăm tuổi trở lên cả. Chúng tôi không nhìn thấy những dấu vết già yếu, bệnh tật trên thân thể họ như vẫn thường thấy ở các bộ lạc khác.

Vị Trưởng Lão lên tiếng: ‘Chúng tôi đã thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói. Chúng tôi muốn gửi một Thông Điệp cho các em trong gia đình nhân loại. Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng hiện nay Nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra.

Thứ nhất, nhân loại cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, đều là con cùng một Mẹ. Dù chúng ta có màu da khác nhau, mặc quần áo khác nhau, có những truyền thống khác nhau, tuân theo những quan niệm khác nhau, sống trong những điều kiện khác nhau nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi. Bên trong chúng ta đâu hề khác biệt. Khi đói chúng ta đều đói như nhau, lúc khát chúng ta đều khát như nhau, chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau. Hiển nhiên phải như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một Mẹ nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi.

Sống xa Mẹ đã lâu, các em đã quên hẳn người Mẹ sinh ra các em, săn sóc, che chở, nuôi dưỡng các em. Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ Cha để lại, phá hoại một cách không thương tiếc, không một mảy may thương tiếc! Các anh đây sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu được lòng Mẹ Cha đang tan nát, đau khổ. Mẹ đã buồn vì các con sinh sau nở muộn đã không biết thương yêu nhau mà trái lại cứ chém giết, hận thù nhau, làm hại lẫn nhau khiến Mẹ Cha khổ sở vô cùng. Không những thế, các em còn dày xéo lên thân thể Mẹ Cha mà không biết rằng các em đang giết hại chính đấng đã sinh ra các em. Các anh biết rõ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại, quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em vì giết hại đấng sinh thành ra mình chính là giết hại chính mình đó.

Mẹ của các em là ai? Chính là trái đất này. Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dãy núi cao có mặt khắp nơi. Này các em, đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ. Nếu trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh. Các anh không biết trong vòng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào? Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo trì môi trường sinh sống. Tại sao được thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy? Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay, thế hệ trước đã giữ gìn cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em có thể tự hào rằng mình văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã tiến bộ khi con người càng ngày càng gia tăng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Các anh biết vậy nhưng phải làm sao đây? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, không thể vi phạm được? Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó, các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại, nếu không thì trễ quá mất rồi! ’

Ký giả Ereira ghi nhận: ‘Thật khó có thể tin rằng những người Kogi lại biết rõ tình trạng phá hoại môi sinh và chiến tranh đang xảy ra trên thế giới hiện nay khi họ không rời phạm vi của đỉnh Sierra. Tuy nhiên điều này có lẽ cũng không sai vì có nhiều bằng chứng rằng môi trường sinh sống của nhân loại đang bước vào một giai đoạn nguy kịch rõ rệt. Một bằng chứng hiển nhiên là lớp tuyết trên đỉnh Sierra trước nay vẫn đóng rất dày mà nay chỉ còn trơ lại một vài mảng mà thôi. Gần đỉnh núi có một hồ nước rất lớn, vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan vào mùa hè. Hồ nước này sẽ dổ xuống các sông ngòi, chảy qua những đồng bằng trước khi chảy ra biển. Hiện nay hồ nước này cũng đã gần cạn khô, mực nước tại sông ngòi quanh vùng đều xuống thấp và dân chúng ở vùng đồng bằng đã than là suốt mấy năm nay nạn hạn hán đã hoành hành dữ dội, số lượng thóc lúa thu hoạch được càng ngày càng xuống rất thấp. Khắp nơi trên thế giới, người ta nói về tình trạng nhiệt độ gia tăng (Global Warning) gây ra bởi nạn đốt rừng phá núi, xẻ đường và hậu quả của những ô nhiễm kỹ nghệ. Thêm vào đó biển cả cũng gặp nhiều khó khăn bởi việc các chất cặn bã gia tăng, giết hại các sinh vật, căn bản của đời sống các loài thủy tộc. Thêm vào đó, việc phát triển các kỷ thuật đánh cá tối tân bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét (Drift Net) của các quốc gia tân tiến đã làm nhiều dân tộc sống ở ven biển gặp nhiều khó khăn về thực phẩm vì chẳng còn có cá để ăn.’

Người ta tiên đoán rằng chỉ vài năm nữa thế giới sẽ lâm vào tình trạng suy kiệt dinh dưỡng. Nạn đói kém sẽ xảy ra khắp nơi, và những quốc gia làm chủ được thực phẩm sẽ là những quốc gia có quyền lực mạnh nhất. Biết rõ nguy nan này, các quốc gia tân tiến đang phát động những căn bản kinh tế, kỹ nghệ mới đặt trên vấn đề môi sinh mà nạn nhân đầu tiên sẽ là các quốc gia kém mở mang, chậm tiến. Chính những quốc gia này sẽ trở thành miếng mồi ngon để các quốc gia tân tiến kéo đến mở mang kỹ nghệ, phóng uế bừa bãi các chất cặn bã, và phá hoại môi sinh. Nhân danh khoa học kỹ thuật, các quốc gia tiên tiến đang cho thuyên chuyển những nhà máy, kỹ nghệ từ xứ họ qua những quốc gia khác dưới những danh nghĩa rất tốt đẹp như hợp tác, phát triển kỹ thuật. Hiển nhiên họ đã ý thức tình trạng phá hoại môi sinh và hậu quả của nó trong quốc gia của họ và quyết định nếu kỹ nghệ là cần thiết thì hậu quả của nó phải xảy ra một nơi nào khác chứ không phải trên lãnh thổ của họ.

Nói một các khác, chính sách ‘thực dân mới’ sẽ không xây dựng trên tình trạng chiếm đất, nhưng sẽ đặt trên căn bản phá hoại môi sinh tại những nơi khác, vì đây là một sự phá họai có tính cách vĩnh viễn, không thể phục hồi. Những quốc gia mà môi sinh bị phá họai sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được khi tình trạng thực phẩm thiếu sót vì đất mầu bị phá họai, rừng rậm bị phá hủy, biển cả và đất đai chứa đựng toàn những chất ô nhiễm. Dĩ nhiên dân chúng sẽ bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa, những thứ bệnh có thể gây tổn thương đến yếu tố di truyền và hoàn toàn suy kiệt nhân lực (Oligarchy) bởi các hóa chất kỹ nghệ.

Thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử mà trong đó tình trạng môi sinh sẽ đóng một vai trò thiết yếu, quan trọng. Khi phái đoàn ký gỉa đài BBC rời rặng Sierra vào tháng Hai năm 1993, những người Kogi đã ân cần nhắn nhủ: ‘Xin các ông hãy mang Thông Điệp này ra gởi cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã thực sự nguy kịch lắm rồi! Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây?’

Nguồn http://www.ngohaibac.net/loi-canh-tinh-cua-cac-bac-tien-boi/